Một bệnh lý rất hay thường gặp ở đường tiết niệu đó chính là sỏi thận. Việt Nam ta là nằm trong nhóm những nước có điều kiện thuận lợi cho việc tích tụ sỏi tại thận đó là do khí hậu nhiệt đới nóng ẩm, cơ thể rất dễ mất nước. Theo thống kê thì có đến 10-14% người dân Việt Nam bị sỏi thận. Trong khi đó tỷ lệ này tại Mỹ là 7% còn tỷ lệ của thế giới là 3%. Bệnh này mặc dù không gây nguy hiểm nhưng có thể gây ra những cơn đau cấp hoặc viêm nhiễm đường tiết niệu, ảnh hưởng tới cuộc sống người bệnh. Hãy cùng tìm hiểu rõ hơn về sỏi thận trong bài viết dưới đây:
Mục lục:
Sỏi thận là bệnh lý gì
Trong nước tiểu có các khoáng chất không tan, chúng kết dính với nhau thành các tinh thể cứng. Sau khi kết hợp lại chúng lắng đọng tại thận trong các bể thận, đài thận… gọi lá sỏi thận. Sỏi có nhiều hình dạng, kích thước do thời gian, do nước tiểu bị cô đặc lại, các thành phần khoáng chất như acid uric, calci, natri, oxalat… kết dính lại với nhau. Thông thường các viên sỏi này sẽ không nằm im tại một vị trí trong thận mà sẽ theo dòng nước tiểu di chuyển và rơi xuống niệu quản, bàng quang. Có thể nói thận là nơi hình thành sỏi sớm nhất. Sau đó sỏi di chuyển đến đau mà bị phát hiện hoặc gây đau sẽ gọi tên theo vị trí đó như sỏi niệu quản, sỏi bàng quang hay sỏi niệu đạo… Các viên sỏi theo thời gian lớn dần có thể phá hủy cấu trúc của thận.
Có mấy loại sỏi thận
Sỏi thận được phân loại theo thành phần hóa học các khoáng chất tạo nên nó. Cụ thể có 4 loại sỏi lắng đọng tại thận đó là:
- Sỏi calcium: Tỷ lệ sỏi này chiếm 80-90% các ca sỏi thận được phát hiện và là sỏi thường gặp nhất. Gồm có hai loại là calci oxalat và calci phosphat. Tại nước ta thì Calci Oxalat chiếm tỷ lệ cao hơn. Tính chất của sỏi này là cứng, có tính cản quang, bề mặt thì gồ ghề, thường có màu vàng hoặc màu nâu.
- Sỏi phosphat: Hay gặp là Magnésium Ammonium Phosphate còn có tên gọi khác là sỏi nhiễm trùng do được hình thành trong quá trình nhiễm trùng đường tiết niệu lâu ngày gây ra, do vi khuẩn loại proteus. Sỏi này cũng có màu vàng nhưng hơi bở. Nó có thể lắng đọng nhiều, kích thước lớn làm lấp kín các đài bể thận gây lên tình trạng sỏi san hô.
- Sỏi acid uric: Sỏi này hình thành do quá trình chuyển hóa purin tăng trong cơ thể. Nguyên nhân bắt nguồn từ việc con người sử dụng nhiều các loại thực phẩm có chứa nhiều purin như nội tạng động vật, thịt chó, thịt cá khô, nấm… hay bệnh nhân đang bị gout hoặc sỏi hình thành do phân hủy các khối ung thư sau khi dùng thuốc hóa trị.
- Sỏi cystine: Hình thành từ việc tái hấp thu cystine tại ống thận. Nó không cản quang, bề mặt thì trơn láng. Sỏi này hiếm gặp tại Việt Nam.
Nguyên nhân gây sỏi thận
Bất cứ yếu tố thuận lợi nào khiến cho các khoáng chất có thể lắng đọng lại tại thận đều có thể là nguyên nhân gây ra sỏi thận. Theo nghiên cứu thì nguyên nhân gây bệnh phải kể đến đó là:
- Thói quen uống ít nước: Uống ít nước khiến nước tiểu cô đặc, không đủ đề cho thận đào thải các chất cặn bã ra ngoài cơ thể. Vậy nên chúng sẽ bị lắng đọng lại và gây ra sỏi là điều không thể khác được.
- Thói quen nhịn tiểu: Tiểu tiện là phản xạ bài tiết chất cặn bã ra khỏi cơ thể. Khi chúng ta nhịn tiểu đồng nghĩa với việc các chất này tồn đọng trong cơ thể. Sau một thời gian dài chúng kết hợp với nhau lắng đọng lại thành sỏi.
- Ăn mặn: Khẩu vị người Việt Nam ta thiên về vị mặn và có rất nhiều các loại gia vị khác nhau trong đó phải kể đến là muối và mắm. Khi ăn nhiều muối NaCl sẽ khiến cơ thể tăng đào thải Na+ cùng với Ca++ tại ống thận nên rất dễ hình thành sỏi Calci tại đây.
- Ăn nhiều chất đạm: Ăn nhiều chất đạm đồng nghĩa với việc trong nước tiểu lọc tại thận cũng giàu chất này làm tăng nồng độ pH của nước tiểu, đồng nghĩa với việc tăng đào thải Calci, giảm hấp thụ Citrate.
- Uống Calcium hoặc vitamin C sai cách: Hai thành phần này nếu không bổ sung đúng cách, uống quá liều lượng sẽ dẫn đến sự dư thừa trong cơ thể. Khi vitamin C dư thừa sẽ chuyển hóa thành oxalat, còn Ca++ thì sẽ cạnh tranh làm giảm hấp thụ các gốc Fe++ hay Zn++…Và tình trạng dư thừa cũng sẽ kích thích tăng đào thải, lắng đọng calci tại thận.
- Sử dụng một số loại thuốc không theo chỉ định của bác sĩ: Nhiều người tự ý dùng một số loại thuốc kéo dài làm tăng nguy cơ bị sỏi thận như thuốc kháng sinh penicilin, cephalosporin…
- Mất ngủ kéo dài: Các mô của thận sẽ có cơ chế tự tái tạo khi cơ thể chúng ta nghỉ ngơi. Nhưng nếu mất ngủ kéo dài thì chức năng tự tái tạo nay bị ảnh hưởng và tăng khả năng hình thành sỏi.
- Mắc bệnh lý đường tiêu hóa như viêm loét dạ dày hay tiêu chảy cũng là nguyên nhân gây bệnh sỏi thận, nhất là sỏi oxalat. Vì khi bị tiêu chảy cơ thể mất nước, mất các ion Na+, K+ làm giảm lượng nước tiểu, tăng nồng độ oxalat…
- Yếu tố di truyền: Sỏi cũng có thể là do di truyền bởi gen gia đình.
- Bẩm sinh hoặc có dị dạng đường tiết niệu: Khi nay có các đoạn gấp khúc tạo điều kiện thuận lợi cho khoáng chất lắng đọng lại mà hình thành sỏi.
- Các bệnh lý như phì đại tiền liệt tuyến, u xơ tiền liệt tuyến cũng làm tăng nguy cơ bị sỏi thận.
- Người bị liệt, chấn thương, ít vận động đi lại khiến cho đường tiết niệu bị tắc nghẽn.
- Béo phì: Theo nghiên cứu thì người béo phì có tỷ lệ bị sỏi cao hơn so với người bình thường.
- Nhiễm trùng đường tiết niệu: Vi khuẩn gây nhiễm trùng đường niệu, tạo ra mủ, các chất bài tiết bị lắng đọng kết hợp cùng mà tạo ra sỏi.
Dấu hiệu cho thấy bạn đang bị sỏi thận
Thực tế thì hòn sỏi lắng đọng trong thận đó không gây ra bệnh cho con người mà chính những biến chứng của nó mới gây ra các biểu hiện bệnh lý. Để từ đó khi tìm căn nguyên gây ra bệnh chúng ta mới phát hiện ra sỏi. Cụ thể là các dấu hiệu dưới đây:
Cơn đau quặn thận
Là dấu hiện điển hình nhất. Tính chất cơn đau: đau dữ dội vùng hố thắt lưng, lan ra phía trước rồi xuống dưới. Bệnh xuất hiện một cách đột ngột sau khi có một hoạt động gắng sức nào đó. Cường độ đau càng lúc càng mạnh. Người bệnh sẽ quằn quại cố gắng tìm ra tư thế giảm đau.
Nguyên nhân là do trên đường di chuyển sỏi gây ma sát với bề mặt tiếp xúc tạo ra các vết thương, nhất là các điểm hẹp. Nếu sỏi nhỏ thì chỉ gây đau âm ỉ. Đau khi đi tiểu.
Có hai trường hợp đau do sỏi cần phần biệt:
- Cơn đau do sỏi ở thận: Đau xuất hiện tại hố thắt lưng, dưới xương sườn 12 rồi lan về phía trước rốn và hố chậu.
- Cơn đau do sỏi ở niệu quản: Đau cũng bắt đầu từ hố thắt lưng nhưng lan dọc theo đường đi của niệu quản, đến hố chậu rồi bộ phận sinh dục và mặt trong của đùi.
Kèm theo cơn đau có thể có các triệu chứng khác như nôn mửa, chướng bụng do liệt ruột. Lúc này cần nhanh chóng đưa người bệnh đến các cơ sở y tế để được xử trí chuyên khoa.
Tiểu dắt, tiểu són
Sỏi tại niệu quản hoặc bàng quang sẽ gây kích thích dẫn đến người bệnh có cảm giác buồn tiểu. Nhưng lượng nước trong bàng quang ít vì vậy mà gây ra tình trạng tiểu buốt, tiểu són như chúng ta đang nói đến. Nó khiến cho người bệnh cảm thấy mệt mỏi, khó chịu.
Tiểu ra máu
Nếu viên sỏi có bề mặt xù xì, cứng trong quá trình sỏi di chuyển có thể gây ma sát, tổn thương bề mặt thận hoặc lòng ống đường tiết niệu và chảy máu. Bởi vậy mà khi đi tiểu chúng ta có thể thấy được có lẫn máu. Tùy vị trí tổn thương mà sẽ có đái máu đầu bãi, cuối bãi hay toàn bãi.
Tắc đường tiểu
Sỏi quá lớn hoặc rơi vào vị trí hẹp trong đường niệu đạo sẽ gây ra tình trạng tắc đường tiểu. Tức là nước tiểu bị ứ đọng lại ở phần trên không thể xuống dưới bàng quang nên sẽ làm tắc đường tiểu tam thời. Nếu không được xử trí thông ngay thì sẽ bị bí tiểu, bế tắc thận, thận ứ nước căng to.
Sốt hay cảm giác ớn lạnh
Sỏi thận là một trong những nguyên nhân phổ biến gây ra nhiễm trùng tiết niệu. Trong quá trình di chuyển bề mặt ỏi sẽ gây ra tổn thương hoặc sỏi bít tắc đường tiểu làm cho nước tiểu bị ứ đọng lại không thoát ra ngoài, tạo điều kiện thuận lợi cho vi khuẩn phát sinh, phát triển. Điều này làm tăng nguy cơ nhiễm trùng ngược dòng. Biểu hiện đặc trưng nhất là sốt và ớn lạnh.
Bệnh sỏi thận có nguy hiểm không
Quá trình sỏi phát triển sẽ gây ra các triệu chứng bệnh lý theo ba giai đoạn gồm có
- Giai đoạn chống đối: Sỏi di chuyển vào đường tiết niệu khi bị vướng tại một điểm nào đó cơ thể sẽ có phản xạ tăng co bóp đường tiết niệu nhằm tống viên sỏi đi xuống, ra ngoài. Phía niệu quản trên và thận chưa bị ứ nước, giãn nở. Nếu có sự tăng áp lực đột ngột ở đài bể thận sau một hoạt động gắng sức sẽ gây ra cơn đau quặn thận điển hình.
- Giai đoạn giãn nở: Sau giai đoạn chống đối sẽ là giai đoạn giãn nở. Khoảng 3 tháng mà sỏi không được xử trí và đẩy ra ngoài thì phần niệu quản trên, bể thận và đài thận bị ứ nước, có hiện tượng giãn nở để chứa nước bị ứ đọng. Nhu động niệu quản giảm dần.
- Giai đoạn biến chứng: Viên sỏi không thể di chuyển mà bám chắc vào niêm mạc, sau một thời gian khiến cho niệu quản bị dày, xơ, lòng ống thu hẹp lại. Khi đó chức năng thận sẽ bị ảnh hưởng, suy giảm. Thận cũng bị ứ nước, ứ lâu thì có nguy cơ nhiễm trùng, ứ mủ.
Nếu không giải quyết dứt điểm sỏi thận mà sỏi cứ tồn tại mãi thì đây là yếu tố thích hợp cho việc nhiễm trùng tiết niệu tái đi tái lại. Viêm bể thận, viêm thận mạn tính rồi sau đó cuối cùng là dẫn đến suy thận, biến chứng nguy hiểm nhất của sỏi thận.
Cách phát hiện sỏi thận
Thông thường người bệnh chỉ chủ động đi khám sỏi thận khi có những cơn đau quặn thận điển hình ảnh hưởng tới sức khỏe của họ. Còn nhiều người khác phát hiện sỏi gián tiếp thông qua các phương pháp cận lâm sàng chẩn đoán hình ảnh khi đi khám bệnh lý khác. Để phát hiện sỏi và chẩn đoán có những phương pháp dưới đây:
- Siêu âm: Đây là phương pháp chẩn đoán hình ảnh thông thường có thể phát hiện ra sỏi thận. Nó ít tốn kém. Thông qua hình ảnh siêu âm các bác sĩ cũng có thể đánh giá được mức độ giãn, ứ nước tại thận, đường tiết niệu cùng độ dày mỏng của nhu mô thận.
- Xét nghiệm nước tiểu: Xét nghiệm này được chỉ định chỉ nhằm mục đích đánh giá tình trạng, giai đoạn và biến chứng. Đặc biệt là phát hiện nhiễm trùng đường tiểu.
- Soi cặn lắng: Nhằm phát hiện thành phần là calci, oxalat hay phosphat…trong nước tiểu để đánh giá sỏi đang tồn tại và hình thành trong hệ tiết niệu.
- pH nước tiểu: Đánh giá tình trạng nhiễm trùng thông qua chỉ số này nhờ vi khuẩn sẽ phân hủy ure thành amoniac.
- ASP-chụp X-quang bụng không chuẩn bị: Phát hiện ra các loại sỏi cản quang nhằm xác định vị trí, số lượng, kích thước sỏi.
- UIV- chụp hệ tiết niệu qua đường tĩnh mạch: Để đánh giá được hình dáng thận, đài bể thận, niệu quản cùng vị trí sỏi trong hệ tiết niệu, mức độ giãn nở đài bể thận, niệu quản cũng như xác định chức năng bài tiết chất cản quang của thận từng bên.
- Chụp X-quang niệu quản ngược dòng và xuôi dòng: Dùng trong trường hợp thận câm khi chụp UIV.
- Nội soi bàng quang: Dùng trong phẫu thuật nội soi lấy sỏi.
Các phương pháp điều trị sỏi thận tốt nhất hiện nay
Điều trị sỏi thận có hai hướng chính là điều trị nội khoa và ngoại khoa tùy theo kích thước soi. Theo đó với những sỏi kích thước nhỏ bác sĩ sẽ chỉ định nội khoa, còn kích thước sỏi to gây ra đau hoặc các biến chứng thì người bệnh được chỉ định ngoại khoa. Cụ thể là:
Điều trị nội khoa
Chỉ định trong trường hợp: Sỏi kích thước nhỏ, có bề mặt trơn láng. Hoặc sỏi loại acid uric không cản quang.
- Uống nhiều nước để tăng đào thải khoáng chất cùng với sỏi.
- Giảm đau: Sử dụng thuốc giảm đau nhóm không steroid NSAIDs, tiêm tĩnh mạch Diclofenac. Một số phải cân nhắc sử dụng cả Morphin.
- Thuốc giãn cơ trơn: Dùng loại Buscopan, Drotaverin…
- Kháng sinh trong trường hợp có viêm đường tiết niệu: Thường là nhóm vi khuẩn gram âm nên dùng nhóm Cephalosporin thế hệ 3, Quinolon hay Aminoside. Nếu có suy thận phải cân nhắc không dùng nhóm Aminoside.
- Xử lý nguyên nhân gây tắc nghẽn.
- Với sỏi bùn có thể dùng thuốc uống làm tan và tống sỏi ra.
- Hỗn hợp các chất terpen như pinen, camphen, cineol, fenchon, borneol, anethol( rowatinex) làm tan và tống sỏi ra ngoài, tăng lượng máu qua thận, tăng lượng nước tiểu, giảm viêm đường niệu.
- Các thuốc chẹn canxi( nifedipin), ức chế thu thể anpha 1(tamsulosin) làm giãn cơ trơn tạo điều kiện tống xuất sỏi ra ngoài.
- Trong đông y có một số vị thuốc tác dụng lợi niệu tống sỏi ra như kim tiền thảo, bông mã đề, chuối hột, râu ngô…
- Với sỏi acid uric không cản quang bị kết tinh khi pH nước tiểu <6. Bằng phương pháp kiềm hóa dùng Bicarbonnat sẽ làm tan sỏi. Hoặc Ức chế purine bằng Allopurinol.
Điều trị ngoại khoa
Chỉ định: Hầu hết các loại sỏi. Có nhiều phương pháp ngoại khoa khác nhau được quyết định áp dụng dựa vào chính viên sỏi, vị trí của nó và giai đoạn bệnh.
- Sỏi bể thận hoặc nhóm đài trên hoặc đài dưới nếu cổ đài rộng, sỏi ở 1/3 niệu quản trên: Tán sỏi ngoài cơ thể khi kích thước sỏi <3cm.
- Sỏi 1/3 giữa và 1/3 dưới niệu quản đối với nam giới, ở nữ giới có thể tán sỏi cao hơn lên ngang đốt sống L3, L4: Tán sỏi ngược dòng.
- Mọi loại sỏi: Tán sỏi bằng laser khi kích thước <2cm.
- Sỏi bể thận, sỏi có kích thước lớn, sỏi san hô, sỏi cứng, sỏi nhóm đài dưới.: Lấy sỏi qua da.
- Sỏi bể thận, sỏi 1/3 trên niệu quản: Sỏi lớn, mật độ chắc và khó tán thì phải phẫu thuật nội soi lấy sỏi.
- Phẫu thuật mổ mở hiện nay ít áp dụng do nhiều tai biến, thời gian phục hồi lâu.
- Phẫu thuật bằng Robot tại các nước phát triển.
>>>Xem thêm
Phòng ngừa sỏi thận đúng cách
Để phòng ngừa bệnh chúng ta cần lưu ý những điều sau:
- Uống nhiều nước, nhất là những người ra mồ hôi nhiều (ít nhất 2,5 lít mỗi ngày tương đương 10 cốc).
- Điều trị nhiễm trùng đường tiết niệu dứt khoát, đúng chỉ định của bác sĩ vì đây là yếu tố nguy cơ có thể làm lắng đọng khoáng chất gây sỏi.
- Dùng vitamin D, vitamin C theo chỉ định của bác sĩ, không tự ý dùng hoặc dùng quá liều.
- Chế độ ăn vừa phải chất calci, giảm ăn muối, chất đạm.
- Giảm ăn các loại thực phẩm giàu oxalat như cần tây, tỏi tây, củ cải, khoai lang, đậu xanh, đậu tương, cà tím…
- Tăng cường vận động, giảm cân với đối tượng béo phì.
- Hạn chế các thực phẩm tăng nguy cơ hình thành sỏi như caffein, soda, trà dâu, trà đá, các loại hạt…
Sau khi điều trị sỏi, kể cả sau phẫu thuật không có nghĩa là sẽ dứt điểm không tái phát. Bởi lẽ còn có rất nhiều nguy cơ gây tái phát sỏi như:
- Phẫu thuật sỏi còn sót.
- Các vị trí hẹp trong đường tiết niệu không được giải quyết nên chất khoáng vẫn tiếp tục lắng đọng.
- Đường tiết niệu vẫn bị nhiễm khuẩn là yếu tố nguy cơ.
Bởi vậy hãy có ý thức phòng ngừa sỏi thận bằng cách thay đổi chế độ sinh hoạt và thực đơn dinh dưỡng một cách hợp lý theo lời khuyên của các bác sĩ. Định kỳ thăm khám bệnh nhằm phát hiện sớm bệnh lý.